Kỹ thuật IVM hay nuôi trưởng thành noãn non trong ống nghiệm được xem là kỹ thuật cải tiến từ thụ tinh ống nghiệm cổ điển, phương pháp này được xem là giải pháp cứu cánh cho những trường hợp vô sinh nữ như phụ nữ có hội chứng buồng trứng đa nang, đáp ứng buồng trứng kém….

IVM là viết tắt của kỹ thuật in vitro maturation – trưởng thành noãn non trong ống nghiệm. Đây là một kỹ thuật hiện đại, noãn của người phụ nữ sẽ được chọc hút ngay từ giai đoạn noãn non sau đó sẽ được nuôi cấy ở môi trường phòng thí nghiệm đến giai đoạn trưởng thành.
IVM được xem là một phần của quy trình làm thụ tinh trong ống nghiệm IVF. Trứng non được nuôi trưởng thành nhờ kỹ thuật IVM sẽ được thực hiện các bước kết hợp với tinh trùng, tạo phôi và nuôi phôi như quy trình IVF. (1)
Noãn của một người phụ nữ được hình thành ngay trong giai đoạn bào thai. Những tế bào noãn này sẽ ở trạng thái không hoạt động cho đến tuổi dậy thì. Khi một bé gái bước vào giai đoạn dậy thì, trục nội tiết bắt đầu hoạt động sẽ kích hoạt các tế bào noãn phát triển, trưởng thành và phóng noãn trong mỗi chu kỳ kinh nguyệt.
Khi thực hiện thụ tinh ống nghiệm, bệnh nhân được sử dụng thuốc kích thích buồng trứng giúp cho nhiều nang noãn phát triển và trưởng thành. Tuy nhiên, không phải lúc nào các tế bào noãn cũng đáp ứng tốt với thuốc kích trứng và trưởng thành, một vài noãn non không đủ điều kiện để thụ tinh và không được thu nhận để sử dụng.
Tuy nhiên, hiện nay với sự phát triển của y học, những tế bào noãn non này có thể được nuôi cấy đến giai đoạn trưởng thành. Các noãn non được nuôi với kỹ thuật IVM sau khi trưởng thành có thể được trữ lạnh để sử dụng hoặc sẽ được tiến hành thụ tinh với tinh trùng để tạo phôi.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công của kỹ thuật IVF trong đó một số yếu tố chính như tuổi của người phụ nữ, nguyên nhân vô sinh và thời gian vô sinh chiếm vai trò rất quan trọng. Theo một số nghiên cứu tỷ lệ có thai với kỹ thuật IVF tương đương với kỹ thuật IVF là 32-44%, tỷ lệ trẻ sinh sống chiếm khoảng 22-29% (Shalom-Paz và cs, 2011, 2012). Theo Hiệp hội Y học sinh sản Hoa Kỳ, IVM là một trong những giải pháp nhằm tăng khả năng điều trị khi bệnh nhân thực hiện hỗ trợ sinh sản (Paulson và cs, 2016).
Một quy trình làm IVM thường gồm có 6 bước chính bao gồm:
Sau khi chuyển phôi hoàn tất, người phụ nữ có thể về nhà nghỉ ngơi và vận động bình thường. Sau chuyển phôi, bác sĩ sẽ kê một số thuốc để hỗ trợ cho sự làm tổ và phát triển của phôi, chị em lưu ý cần uống và đặt thuốc đúng liều, đúng lịch để có kết quả tốt nhất.
>> Xem thêm: 6 lưu ý sau chuyển phôi mà các cặp vợ chồng nên biết
Với phương pháp IVM, thông thường người bệnh sẽ không dùng thuốc kích trứng hoặc sử dụng thuốc với liều thấp, ngắn ngày hơn so với điều trị IVF. Với kỹ thuật IVM, thay vì kích thích buồng trứng và để trứng trưởng thành trong cơ thể rồi mới chọc hút thì bác sĩ sẽ tiến hành chọc hút các nang trứng non, nhỏ ra ngoài để nuôi cấy trong phòng thí nghiệm. Trứng non sau khi nuôi cấy trưởng thành sẽ được thụ tinh với tinh trùng và tạo thành phôi.
Theo bác sĩ Phạm Thị Mỹ Tú, phương pháp In Vitro Maturation (IVM) mang lại lợi ích cho bệnh nhân với việc chỉ cần tiêm thuốc trong hai hoặc ba ngày, giảm đáng kể so với tám đến mười ngày như kỹ thuật In Vitro Fertilization (IVF) truyền thống. Bệnh nhân không phải chi trả nhiều chi phí cho việc tiêm thuốc, đồng thời tránh nguy cơ quá kích buồng trứng.
Tuy nhiên, kỹ thuật IVM đã trải qua những thách thức do độ khó trong thực hiện so với IVF truyền thống. Trứng non có kích thước nhỏ trong khi đó buồng trứng luôn di động vì vậy đòi hỏi sự khéo léo và kinh nghiệm của người bác sĩ khi thực hiện chọc hút. Việc nuôi cấy trứng non trong ống nghiệm cũng khó khăn và có số phôi ít hơn so với IVF.
Chất lượng của trứng sau quá trình nuôi cấy trong giai đoạn trứng non vẫn chưa có nhiều nghiên cứu cải thiện. Các hãng dược không đưa ra sự ủng hộ vì lo ngại rằng nếu IVM trở nên phổ biến, điều này có thể ảnh hưởng đến doanh số bán thuốc kích thích buồng trứng trên toàn cầu.
Điều này đã tạo ra những rắc rối trong việc thu hút sự quan tâm và nghiên cứu phát triển của kỹ thuật IVM, đặc biệt là khi nó không nhận được sự ủng hộ tài trợ từ các công ty dược phẩm. Vì vậy mà hiện nay có khá ít trung tâm triển khai kỹ thuật IVM. (3)

Mặc dù đây là một phương pháp điều trị tương đối mới so với IVF, trên thế giới đã có hơn 3000 trẻ em được sinh ra nhờ điều trị IVM trong hai mươi năm qua. Dữ liệu về trẻ sinh ra từ 1500 trẻ sơ sinh từ chu kỳ IVM cho thấy nguy cơ sẩy thai tăng lên nhưng nó có thể liên quan nhiều hơn đến tỷ lệ phụ nữ mắc hội chứng buồng trứng đa nang cao so với nhóm bệnh nhân điều trị IVF.
Nguy cơ sinh non và sinh con nhẹ cân dường như thấp hơn so với các trường hợp mang thai từ kỹ thuật IVF. Tỉ lệ dị tật bẩm sinh sẽ vào khoảng 3-5%, tương tự như đối với trẻ em được thụ thai tự nhiên hoặc điều trị bằng phương pháp thụ tinh ống nghiệm. Nhìn chung, kết quả của trẻ em sinh ra từ hỗ trợ sinh sản nói chung cho thấy IVM không làm gia tăng nguy cơ sản khoa cũng như tần suất dị tật bẩm sinh của trẻ sinh ra so với các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản khác.
Kỹ thuật nuôi trưởng thành trứng non có nhiều ưu điểm, đây là kỹ thuật ít xâm lấn và hạn chế đau đớn cho bệnh nhân khi thực hiện. Với việc sử dụng thuốc kích thích buồng trứng ít hơn sẽ giảm chi phí điều trị. Bên cạnh đó, IVM được xem là phương pháp điều trị lý tưởng đối với những bệnh nhân có đáp ứng kém với thuốc kích thích buồng trứng.
Khi thực hiện kỹ thuật nuôi trưởng thành trứng non, trong quá trình kích thích buồng trứng, bệnh nhân không cần tiêm nhiều hormone, điều này làm giảm nguy cơ quá kích buồng trứng khi điều trị cũng như giảm các biến chứng, mang đến nhiều lợi ích cho người bệnh.
Ngoài ra, trong trường hợp thất bại với kỹ thuật IVM ở lần đầu, bệnh nhân có thể tiến hành làm IVM lại ở chu kỳ sau mà không cần chờ đợi một khoảng thời gian như khi thực hiện điều trị với kỹ thuật IVF. Điều này mang lại sự linh hoạt và cơ hội cho bệnh nhân để kiểm soát và quản lý quá trình điều trị một cách hiệu quả hơn.

Nhìn chung, các phương pháp điều trị trong hỗ trợ sinh sản được chứng minh là an toàn cho bệnh nhân kể cả IVM và IVF. Các nguy cơ nhiễm trùng và chảy máu sau khi chọc hút noãn hoặc chuyển phôi của chu kỳ IVM tương đương so với chu kỳ IVF.
Tuy IVM mang lại những thách thức về việc dự đoán số lượng noãn chọc hút được, số lượng noãn trưởng thành, và số phôi tạo thành và thông thường thì số phôi tạo thành từ IVM ít hơn so với các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản khác như IVF, ICSI.
Mặc dù vậy, tỉ lệ thành công trong việc có thai từ một chu kỳ IVM là tương đương với tỷ lệ có thai từ một chu kỳ IVF. Điều này đồng nghĩa với việc mặc dù có thể gặp khó khăn trong quá trình chọc hút noãn, nuôi cấy noãn và tạo phôi nhưng IVM vẫn mang đến tỷ lệ thành công khả quan.
Noãn được thu thập trong chu kỳ IVM là từ các nang noãn nhỏ hơn nhiều so với những nang được chọc hút trong quá trình IVF. Đây là một trong những thách thức làm cho IVM trở thành một kỹ thuật khó khăn hơn. Do đó, lý tưởng nhất là bệnh nhân có một số lượng nang noãn đầu chu kỳ nhiều để bắt đầu thực hiện IVM.
IVM phù hợp nhất cho những phụ nữ bị hội chứng buồng trứng đa nang hoặc buồng trứng có hình ảnh giống đa nang. Số lượng nang noãn trên những bệnh nhân này thường nhiều hơn so với nhóm bệnh nhân có dự trữ buồng trứng bình thường.
Trong chu kỳ IVM, bệnh nhân vẫn có tiêm thuốc kích thích buồng trứng nhưng với liều lượng thấp hơn so với chu kỳ IVF. Việc sử dụng một lượng rất nhỏ thuốc sẽ tránh được các tác dụng phụ không mong muốn và nguy cơ mắc hội chứng quá kích buồng trứng. (4)

IVM được xem là một phần trong quá trình điều trị thụ tinh trong ống nghiệm IVF. Tuy nhiên giữa IVM và IVF có sự khác nhau ở những bước thực hiện ban đầu. Trong khi điều trị IVF, thông thường người phụ nữ phải tiêm hormone kích thích buồng trứng trong khoảng 8-11 ngày trước khi trứng được chọc hút, lọc rửa chọn trứng trưởng thành để thụ tinh.
Ngược lại, đối với phương pháp IVM, quá trình kích thích buồng trứng sẽ ngắn hơn, thông thường chị em cần khoảng 3-6 ngày tiêm kích thích buồng trứng. Sau đó trứng non sẽ được lấy ra và nuôi trưởng thành trong phòng thí nghiệm, những trứng trưởng thành sẽ được kết hợp với tinh trùng để thụ tinh tạo thành phôi sau đó được cấy vào tử cung người mẹ. Trong một số trường hợp, bác sĩ có thể trữ lạnh noãn hoặc phôi trước sau đó mới chuyển phôi vào thời điểm bệnh nhân mong muốn.
Trước khi quyết định thực hiện IVM, việc kiểm tra sức khỏe tổng quát là quan trọng để phát hiện sớm bất thường về sức khỏe và đưa ra biện pháp can thiệp điều trị kịp thời. Trong trường hợp sức khỏe của vợ chồng là bình thường, việc bồi bổ và rèn luyện điều độ là quan trọng để chuẩn bị sức khỏe tốt nhất cho quá trình điều trị IVM.

Sau khi trứng non được chọc hút, quá trình nuôi cấy sẽ được các chuyên viên phôi học tại phòng lab đảm nhận. Sau thủ thuật chọc hút trứng, hầu hết chị em có thể về nhà ngay trong ngày và sinh hoạt nhẹ nhàng. Quá trình phục hồi sau chọc hút trứng diễn ra khá nhanh, chị em nên uống đủ nước, ăn uống khoa học, đảm bảo đầy đủ dinh dưỡng cần thiết mỗi ngày. Bên cạnh đó hãy xây dựng cho mình một chế độ nghỉ ngơi sau khi chọc hút trứng có một lối sống lành mạnh, ngủ đủ giấc tập thể dục và luôn để tinh thần thật thoải mái, tránh căng thẳng, mệt mỏi.
Mặc dù trong các thống kê cho thấy tỷ lệ mang thai của kỹ thuật trưởng thành trứng non IVM có thể lên đến 54%, tuy nhiên không phải mọi trường hợp đều thành công ngay lần đầu tiên. Do đó, khi quyết định thực hiện kỹ thuật IVM để tìm con, các cặp đôi cần chuẩn bị tâm lý, hãy trao đổi với bác sĩ về những thắc mắc, lo ngại khi điều trị và giữ tinh thần thoải mái tránh những cảm xúc tiêu cực, chán nản, căng thẳng hay nóng vội vì tất cả những yếu tố này đều sẽ ảnh hưởng không tốt trên hành trình tìm con yêu.

Kỹ thuật trưởng thành trứng non trong ống nghiệm là một quá trình phức tạp, yêu cầu bác sĩ, chuyên viên phôi học là người có chuyên môn cao và giàu kinh nghiệm khi thực hiện.
Trung tâm Hỗ trợ Sinh sản tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh (IVFTA) được trang bị cơ sở vật chất hiện đại, hệ thống máy móc tiên tiến và đội ngũ chuyên gia hàng đầu, IVFTA luôn tiên phong trong việc sử dụng những công nghệ hỗ trợ sinh sản mới nhất trên thế giới như đưa vào sử dụng hệ thống nuôi cấy phôi động học áp dụng trí tuệ nhân tạo AI giúp nâng cao tỷ lệ nuôi phôi và chọn lọc phôi tốt.
Bên cạnh đó, IVFTA có sự liên kết chặt chẽ với nhiều chuyên khoa khác như Sản Phụ Khoa và Sơ sinh, đảm bảo chăm sóc toàn diện cho sức khỏe của bà bầu và em bé từ thời kỳ mang thai đến khi chào đời.
IVFTA đang dẫn đầu cả nước về tỷ lệ thành công trong thụ tinh ống nghiệm, nổi bật trong việc điều trị hiệu quả các bệnh lý vô sinh nam nữ. Đặc biệt với những trường hợp cực khó như phụ nữ có chỉ số dự trữ buồng trứng suy kiệt, sảy thai nhiều lần, điều trị IVF thất bại nhiều lần, mắc hội chứng buồng trứng đa nang, nam giới vô tinh, người từng có chỉ định xin trứng, xin tinh trùng ở những lần điều trị trước đó.
Nếu bạn quan tâm đến dịch vụ nuôi cấy trứng non làm thụ tinh ống nghiệm tại Trung tâm Hỗ trợ sinh sản IVF Tâm Anh có thể liên hệ:
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Trưởng thành trứng non trong ống nghiệm đang là một phương pháp điều trị hỗ trợ sinh sản nổi trội tại IVF Tâm Anh TP.HCM. Với việc sở hữu phòng lab hiện đại, trang thiết bị tiên tiến cùng đội ngũ bác sĩ, kỹ thuật viên phôi học giàu kinh nghiệm có thể thực hiện kỹ thuật IVM một cách tốt nhất, mang đến hiệu quả cao trong điều trị cũng như nâng cao tỷ lệ thành công.